NhaDatVip.Com

Tư vấn thời hạn của Giấy phép xây dựng nhà, Thủ tục cấp lại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Vợ có được tự bán đất khi chồng mất trí nhớ

Hỏi: Hồi đầu năm 2013, bố mẹ tôi đã lên phường để trình báo về việc muốn xây dựng 2 căn nhà, 1 cho vợ chồng tôi, 1 cho bố mẹ.Sau khi giấy phép xây dựng được phê duyệt, nhà bố mẹ tôi tới nay đã xây dựng xong. Tuy nhiên, ngôi Nhà đất của tôi do có chút thay đổi nên giờ mới bắt móng lên chứ vẫn chưa xây.Hiện tại, tôi đang muốn

Hỏi: Hồi đầu năm 2013, bố mẹ tôi đã lên phường để trình báo về việc muốn xây dựng 2 căn nhà, 1 cho vợ chồng tôi, 1 cho bố mẹ.
Sau khi giấy phép xây dựng được phê duyệt, nhà bố mẹ tôi tới nay đã xây dựng xong. Tuy nhiên, ngôi Nhà đất của tôi do có chút thay đổi nên giờ mới bắt móng lên chứ vẫn chưa xây.
Hiện tại, tôi đang muốn xây lại nhưng lục tìm giấy phép thì thấy ghi thời hạn có hiệu lực chỉ là 1 năm (thời điểm xxin phép là năm 2013). Do đó, hiện đã qua thời hạn này.
Như vậy, tôi có cần phải lên phường xin giấy phép mới không? Trân trọng cảm ơn.
Trả lời:
Khoản 1, Điều 11, Nghị định số 64/2012/NĐ-CP quy định về việc gia hạn giấy phép xây dựng cụ thể như sau: “Trong thời hạn 30 ngày, trước thời điểm giấy phép xây dựng hết hạn, nếu công trình chưa được khởi công, thì chủ đầu tư phải đề nghị gia hạn giấy phép xây dựng. Mỗi giấy phép xây dựng chỉ được gia hạn một lần. Thời gian gia hạn tối đa không quá 6 tháng. Nếu hết thời gian gia hạn, chủ đầu tư chưa khởi công xây dựng thì phải nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng mới”.
Vì thế, trường hợp của gia đình bạn nếu vẫn còn thời hạn gia hạn giấy phép, bạn có thể không phải xin giấy phép mới. Trường hợp đã quá hạn theo quy định thì bạn cần làm hồ sơ xin cấp phép xây dựng căn cứ vào quy định pháp luật.

Hỏi: Bố mẹ tôi Mua nhà tại Hà Nội, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở từ năm 2006. Nay bố mẹ tôi đều đã qua đời nhưng tôi lại không may làm mất giấy chứng nhận. Tôi muốn hỏi, thủ tục xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở như thế nào?

Trả lời:
Thủ tục xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở trong trường hợp bị mất được quy định tại Điều 77 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/4/2014 của Chính phủ. Cụ thể:
Hộ gia đình và cá nhân, cộng đồng dân cư phải khai báo với UBND cấp xã nơi có đất về việc bị mất giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng. UBND cấp xã có nhiệm vụ niêm yết thông báo mất giấy chứng nhận tại trụ sở UBND cấp xã, trừ trường hợp mất giấy chứng nhận do thiên tai, hỏa hoạn.
Sau 30 ngày làm việc, kể từ ngày niêm yết thông báo mất giấy chứng nhận tại trụ sở UBND cấp xã, người bị mất giấy chứng nhận nộp một bộ hồ sơ đề nghị cấp lại giấy chứng nhận.
Văn phòng đăng ký đất đai sẽ kiểm tra hồ sơ, trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất (trong trường hợp chưa có bản đồ địa chính và chưa trích đo địa chính thửa đất), lập hồ sơ trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 37 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ký quyết định hủy giấy chứng nhận bị mất, đồng thời ký cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; tiến hành chỉnh lý, cập nhật biến động vào hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai; trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người được cấp hoặc gửi UBND cấp xã để trao lại với trường hợp nộp hồ sơ tại cấp xã.
Vì bố mẹ bạn đều đã qua đời nên không thể trực tiếp làm thủ tục xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở được. Do vậy, bạn cần liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để được hướng dẫn thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật. Những người thừa kế của bố mẹ bạn có thể lập văn bản để cử một người đại diện thực hiện các thủ tục này.

Hỏi: Từ khi mắc phải căn bệnh khó chữa, chồng tôi gần như mất trí nhớ. Hiện nay, hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn nên tôi muốn bán đi một phần đất của vợ chồng để có thể trang trải nợ nần.
Thực tế, mảnh đất đó chính đất vườn, ba mẹ chống cho chúng tôi trước đây khi cưới nhau. Hiện nay, tôi muốn bán đất nhưng chồng lại không được tỉnh táo để bàn bạc. Như vậy, về mặt pháp luật, tôi có thể tự ý người bán đất cho người khác được không? Tôi cũng sợ thiên hạ dị nghị, điều tiếng.
Rất mong được luật sư tư vấn. Trân trọng cảm ơn.
Trả lời:
Pháp luật quy định, việc thực hiện những giao dịch liên quan tới tài sản chung vợ chồng thì cần phải có sự thống nhất của cả hai. Tuy nhiên, trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch, vợ và chồng có thể thể ủy quyền cho nhau theo quy định ở Điều 24, Luật Hôn nhân Gia đình như sau:
“1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
3. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.
Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn.”
Tuy nhiên, từ thông tin mà bạn cung cấp có thể thấy, chồng bạn đã mất trí nhớ và không thể tỉnh táo để bàn bạc, thống nhất về vấn đề bán đất. Do đó, bạn bắt buộc phải bán đất nhằm trang trải cuộc sống khi chồng bạn không ủy quyền thì có thể xem xét tới trường hợp yêu cầu cơ quan chuyên môn xem xét giám định, tổ chức giám định chồng bạn mất năng lực hành vi dân sự,. Trên cơ sở đó, bạn yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố chồng mình mất năng lực hành vi dân sự:
“1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.”
Đối với trường hợp này, bạn chính là người giám hộ đương nhiên theo quy định tại Điều 62, Bộ luật Dân sự và có thể tự mình tiến hành các giao dịch có liên quan mà không cần có sự ủy quyền hay thống nhất từ chồng mình.